Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 8

  • Hôm nay 2076

  • Tổng 1.004.727

Giới thiệu những điểm mới và một số nội dung trọng tâm của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015

Xem với cỡ chữ : A- A A+

 Ngày chủ nhật, 22 tháng 5 năm 2016 cử tri trong cả nước đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, đây là quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân. Để phục vụ cho cuộc bầu cử bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 thành công tốt đẹp xin giới thiệu những điểm mới, một số nội dung trọng tâm của Luật Bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND năm 2015, cụ thể như sau:

 

Ngày 25/6/2015 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.Luật số: 85/2015/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/9/2015.
1. Tuổi bầu cử và tuổi ứng cử: 
Tính đến ngày bầu cử được công bố, công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đủ 18 (mười tám) tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 20 (hai mươi mốt) tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Luật này.
2.Tiêu chuẩn của người ứng cử: 
Người ứng cử đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội , bao gồm:
- Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn hóa, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội.
- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.
- Có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội.
* Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân, bao gồm:
- Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của Hội đồng nhân dân.
- Liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm.
 3. Thẩm quyền quyết định ngày bầu cử:

 

 Khoản 1, Điều 4 Luật Bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND quy định thẩm quyền quyết định ngày bầu cử toàn quốc đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; quyết định việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội trong thời gian giữa nhiệm kỳ; quyết định, thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia thuộc về Quốc hội (Theo quy định của pháp luật hiện hành thẩm quyền này thuộc về Ủy ban Thường vụ Quốc hội).

 

 Đồng thời, Luật cũng quy định rõ:“Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật và được công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày bầu cử”.

 

 4. Cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng ĐBQH và ĐBHĐND

 

 - Cơ cầu, thành phần:

 

* Đại biểu Quốc hội: Căn cứ vào dự kiến số lượng đại biểu Quốc hội được bầu, sau khi thống nhất ý kiến với Ban thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đại diện các tổ chức chính trị - xã hội, chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng Đại biểu Quốc hội:
+ Bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong Quốc hội.
+ Bảo đảm có ít nhất 18% (mười tám phần trăm) tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số.
+ Bảo đảm có ít nhất 35% (ba mươi lăm phần trăm) tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.
* Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp: Căn cứ vào số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu ở mỗi đơn vị hành chính theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương, sau khi thống nhất ý kiến với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban nhân dân cùng cấp, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (đối với cấp tỉnh)/Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện (đối với cấp huyện)/Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã (đối với cấp xã) dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân của cấp mình, trong đó bảo đảm có ít nhất 35% (ba mươi lăm phần trăm) tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là phụ nữ; số lượng người ứng cử là người dân tộc thiểu số được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương;
Như vậy, Luật Bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND năm 2015 đã quy định cụ thể về tỷ lệ cơ cấu, thành phần đại biểu là nữ giới, là người đồng bào dân tộc thiểu số.
 5. Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương:
* Hội đồng bầu cử quốc gia:

 

Hội đồng bầu cử quốc gia là một thiết chế hiến định mới trong Hiến pháp 2013. Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội thành lập (Luật cũ gọi là Hội đồng bầu cử ở Trung ương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập) có từ 15 (mười lăm) đến 21 (hai mươi mốt) thành viên gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số cơ quan, tổ chức hữu quan.
Nhiệm vụ chung của Hội đồng bầu cử quốc gia là Tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; Chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử, công tác thông tin, tuyên truyền và vận động bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong cuộc bầu cử; Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành pháp luật về bầu cử; Quy định mẫu hồ sơ ứng cử, mẫu thẻ cử tri, mẫu phiếu bầu cử, nội quy phòng bỏ phiếu, các mẫu văn bản khác sử dụng trong công tác bầu cử.
Hội đồng bầu cử quốc gia kết thúc nhiệm vụ sau khi đã trình Quốc hội khóa mới báo cáo tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước và kết quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội được bầu, bàn giao biên bản tổng kết và hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội cho Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa mới.
 Các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương:

 

Luật bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND quy định các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương gồm: Ủy ban bầu cử; Ban bầu cử và Tổ bầu cử. Đồng thời, luật cũng quy định cụ thể về cách thức thành lập, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của các tổ chức phụ trách bầu cử và thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương.
 
6. Danh sách cử tri:

 

 - Luật bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND quy định: “Mọi công dân có quyền bầu cử đều được ghi tên vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri”.

 

Đồng thời, Luật đã bổ sung quy định về quyền bầu cử của người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đây là một quy định hoàn toàn mới so các quy định trước đây, cụ thể: Khoản 5, Điều 29 có quy định như sau: “Cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc”. 
- Luật cũng quy định rõ: Đối với người thuộc một trong các trường hợp sau thì không được ghi tên vào danh sách cử tri:
+ Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
+ Người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án;
+ Người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo;
+ Người mất năng lực hành vi dân sự.
Tuy nhiên, nếu đến trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ, các trường hợp trên nếu được khôi phục lại quyền bầu cử, được trả lại tự do hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác nhận không còn trong tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì được bổ sung vào danh sách cử tri và được phát thẻ cử tri.
- Danh sách cử tri do Ủy ban nhân dân cấp xã lập theo từng khu vực bỏ phiếu. Đối với huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn thì Ủy ban nhân dân huyện có trách nhiệm lập danh sách cử tri theo từng khu vực bỏ phiếu; Danh sách cử tri trong đơn vị vũ trang nhân dân do chỉ huy đơn vị lập theo đơn vị vũ trang nhân dân để đưa vào danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu nơi đơn vị đóng quân... Chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử, cơ quan lập danh sách cử tri niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và tại những địa điểm công cộng của khu vực bỏ phiếu, đồng thời thông báo rộng rãi danh sách cử tri và việc niêm yết để Nhân dân kiểm tra.
 7. Bỏ phiếu ở nơi khác

 

Từ khi niêm yết danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào vì đi nơi khác, không thể tham gia bỏ phiếu ở nơi đã được ghi tên vào danh sách cử tri thì có quyền xin giấy chứng nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi mình, đã có tên trong danh sách cử tri để được bổ sung tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở nơi mình có thể tham gia bỏ phiếu. Khi cấp giấy chứng nhận, Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi ngay vào danh sách cử tri tại khu vực bỏ phiếu thuộc địa phương mình bên cạnh tên cử tri cụm từ “Bỏ phiếu ở nơi khác”.
8. Ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân 
* Ứng cử: 
- Chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử, Công dân ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải nộp hồ sơ ứng cử.
- Hồ sơ ứng cử bao gồm:
+ Đơn ứng cử;
+ Sơ yếu lý lịch có chứng nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền;
+ Tiểu sử tóm tắt;
+ Ba ảnh chân dung màu cỡ 4cm x 6cm;
+ Bản kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
- Những trường hợp không được ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
+ Người đang bị tước quyền ứng cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người đang chấp hành hình phạt tù, người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
+ Người đang bị khởi tố bị can.
+ Người đang chấp hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án.
+ Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhưng chưa được xóa án tích.
 + Người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
9. Danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội

 

- Danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội/đại biểu hội đồng nhân dân phải ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, quê quán, nơi thường trú, dân tộc, tôn giáo, trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp, chức vụ, nơi công tác của người ứng cử. Danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội theo từng đơn vị bầu cử được xếp theo vần chữ cái A, B, C...
+ Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội: Số người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử đó ít nhất là hai người. Trong trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng thì Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.
+ Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân: Số người trong danh sách ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu đã ấn định cho đơn vị bầu cử đó; nếu đơn vị bầu cử được bầu ba đại biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu ít nhất là hai người; nếu đơn vị bầu cử được bầu từ bốn đại biểu trở lên thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số lượng đại biểu được bầu ít nhất là ba người.
- Vấn đề hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội được quy định cụ thể theo trình tự, thủ tục theo luật.
- Niêm yết danh sách người ứng cử: Chậm nhất là 20 ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải niêm yết danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở khu vực bỏ phiếu.
10. Về nguyên tắc và trình tự bỏ phiếu: 
Luật giữ nguyên quy định về thời gian bỏ phiếu bắt đầu từ 07 giờ sáng đến 07 giờ tối cùng ngày. Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước 5 giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá 9 giờ tối cùng ngày (theo quy định cũ là không quá 10 giờ đêm).
Quy định này nhằm đảm bảo kết quả kiểm phiếu của các khu vực bầu cử không tác động đến việc bầu cử của khu vực bỏ phiếu khác.
 11. Vận động tranh cử, bỏ phiếu, kiểm phiếu:

 

- Việc vận động bầu cử được tiến hành dân chủ, công khai, bình đẳng, đúng pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và trong chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu cử, các cơ quan, tổ chức liên quan sẽ đảm nhiệm các nhiệm vụ cụ thể tương ứng. Việc vận động bầu cử của người ứng cử có thể theo hình thức gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri tại hội nghị tiếp xúc cử tri ở địa phương nơi mình ứng cử hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng.
- Việc bỏ phiếu phải đảm bảo đúng nguyên tắc theo luật định. Trong thời hạn 10 ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu bằng hình thức niêm yết, phát thanh và các phương tiện thông tin đại chúng khác của địa phương. Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử quốc gia xem xét, quyết định.
- Việc kiểm phiếu phải được tiến hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc. Sau khi nhận, kiểm tra biên bản kết quả kiểm phiếu của các Tổ bầu cử và giải quyết khiếu nại, tố cáo (nếu có), Ban bầu cử lập biên bản xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình. Ngoài ra còn có trường hợp bầu cử thêm, bầu cử lại cũng được luật quy định rất cụ thể. Cuối cùng là tổng kết cuộc bầu cử trong đó có các bước về công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử; giải quyết khiếu nại về kết quả bầu cử; xác nhận tư cách của người trúng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Trường hợp bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân khi đáp ứng điều kiện tại Điều 89 Luật này và cũng tuân thủ các bước về tổ chức phụ trách bầu cử bổ sung; danh sách cử tri; ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử; kết quả bầu cử bổ sung…
 12. Xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử và điều khoản thi hành

 

 * Xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử:

 

Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử của công dân; vi phạm các quy định về vận động bầu cử; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác để làm sai lệch kết quả bầu cử hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về bầu cử thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
 * Điều khoản thi hành:

 

Kể từ ngày Luật bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND năm 2015 có hiệu lực thi hành, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 31/2001/QH10 và Luật số 63/2010/QH12, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân số 12/2003/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 63/2010/QH12 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

  THÚY PHƯƠNG

Các tin khác