Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 1

  • Hôm nay 308

  • Tổng 1.011.161

70 năm Cơ quan làm công tác dân tộc một chặng đường vẻ vang

Xem với cỡ chữ : A- A A+
 Từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất chú trọng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác dân tộc và vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng quy tụ các dân tộc cùng nhau đoàn kết đấu tranh cho độc lập Tổ quốc.

 Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 03-5-1946, Nha Dân tộc thiểu số, tiền thân của Ủy ban Dân tộc được thành lập. Từ đó đến nay, Cơ quan làm công tác dân tộc trải qua chặng đường lịch sử 70 năm với nhiều tên gọi và hình thức tổ chức khác nhau, khi là cơ quan độc lập, khi được lồng vào Ban Dân tộc Trung ương của Đảng.

Ở mỗi giai đoạn với những tên gọi khác nhau và có thay đổi về cơ cấu tổ chức, bộ máy, nhưng cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc đã thực hiện tốt công tác tham mưu cho Đảng và Nhà nước về chủ trương, chính sách dân tộc, đại đoàn kết dân tộc, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chiến tranh bảo vệ biên giới và trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
70 năm qua, cùng với sự lớn mạnh của Cơ quan dân tộc Trung ương, tổ chức làm công tác dân tộc tỉnh Quảng Bình cũng không ngừng trưởng thành, cùng các cấp, các ngành, tổ chức đoàn thể thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ, tạo chuyển biến cơ bản về kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc, miền núi.
Cơ quan làm công tác dân tộc tỉnh ban đầu chỉ là một bộ phận trực thuộc Ủy ban MTTQVN tỉnh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với quân và dân cả nước, tổ chức làm công tác dân tộc tỉnh đã  động viên đồng bào dân tộc thiểu số cùng nhân dân trong tỉnh tham gia kháng chiến, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Đồng bào các dân tộc đẩy mạnh tăng gia sản xuất, cung cấp lương thực cho kháng chiến, lập làng bản dọc các tuyến đường giao liên để bảo vệ cán bộ và làm công tác hậu cần tại chỗ. Cùng với nhân dân cả tỉnh, đồng bào dân tộc thiểu số tích cực hưởng ứng Tuần lễ vàng, Tuần lễ đồng, đóng góp nhiều tài sản giá trị cho kháng chiến, góp phần cùng với quân dân cả nước giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ gian khổ.
Sau năm 1954, đất nước chia làm hai miền. Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc được đặt ra hết sức cấp thiết. Tỉnh ủy Quảng Bình chỉ đạo tách bộ phận làm công tác dân tộc ra khỏi Ủy ban MTTQVN tỉnh, lập Ban Dân tộc trực thuộc Tỉnh ủy.
Thời kỳ này, Ban Dân tộc phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số du canh du cư sống định canh định cư, vận động đồng bào từ bỏ các hủ tục, thực hiện nếp sống mới và tổ chức phương thức lao động tập thể.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc, Quảng Bình trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt của hải quân và không quân Mỹ. Dưới mưa bom, bão đạn, đồng bào dân tộc thiểu số đã sát cánh với  bộ đội, thanh niên xung phong bảo đảm các tuyến đường thông suốt, kịp thời đưa hàng ra phục vụ tiền tuyến.
Sau ngày đất nước thống nhất, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên về chung một nhà với tên gọi Bình Trị Thiên. Ban Dân tộc tỉnh Bình Trị Thiên ra đời,  hoạt động cho đến ngày chia tỉnh. Thời kỳ này, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách lớn quan tâm chăm lo, cải thiện cuộc sống đối với đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi như Nghị quyết 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27-11-1989, Quyết định 72/QĐ-HĐBT ngày 13-3-1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Để thực hiện tốt các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước nhằm đẩy nhanh hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế-xã hội miền núi, đồng thời nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của vùng miền núi trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, UBND tỉnh kịp thời ban hành Quyết định số 454/QĐ-UB, ngày 26-5-1990, thành lập Ban chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội miền núi.
3 năm sau, ngày 8-3-1993, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 168/QĐ-UB thành lập Ban Dân tộc và Miền núi (hiện tại là Ban Dân tộc) trực thuộc UBND tỉnh, quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc, miền núi. Thực hiện Nghị định số 53/2004/NĐ-CP ngày 18-2-2004 về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc UBND các cấp, UBND tỉnh quyết định thành lập các phòng Dân tộc cấp huyện.
Chặng đường 70 năm với những thành tích đạt được, tổ chức làm công tác dân tộc tỉnh luôn thực hiện tốt vai trò tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh về lĩnh vực công tác dân tộc và miền núi, góp phần quan trọng cùng các cấp, các ngành, đoàn thể thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc.
Ban Dân tộc khẳng định vai trò, vị trí của mình trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc bằng những hoạt động cụ thể:
Trình Trung ương công nhận 64 xã, thị trấn, miền núi vùng cao và đề xuất phân định 3 khu vực theo trình độ phát triển, làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi của tỉnh. Đề nghị Chính phủ xem xét công nhận 39 xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) thuộc Chương trình 135 giai đoạn I (1998-2005); 35 xã, 54 thôn bản ĐBKK thuộc Chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010); 44 xã, 27 thôn bản ĐBKK giai đoạn III (2010-2015) để Chính phủ đầu tư, hỗ trợ vùng ĐBKK, giải quyết nhiều vấn đề  liên quan về cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất và đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi. Xây dựng dự án tổng quan về quy hoạch mạng lưới trung tâm cụm xã (TTCX) miền núi, vùng cao, trong đó có 13/17 TTCX được phê duyệt, 12 TTCX được ngân sách Trung ương bố trí vốn đầu tư xây dựng.
Chủ động đề xuất với Ủy ban Dân tộc loại hình dự án bảo tồn các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh: Dự án hỗ trợ tộc người Rục, A Rem, Mày, Mã Liềng và Ma Coong; Dự án bảo tồn và phát triển kinh tế-xã hội vùng tộc người Rục, xã Thượng Hóa; xây dựng Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội dân tộc Chứt (dân tộc có số dân dưới 10.000 người), giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; Đề án một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (theo Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg; Quyết định 755/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ).
Thực hiện các nhiệm vụ của UBND tỉnh giao, Ban Dân tộc tổ chức điều tra, khảo sát và xây dựng trình UBND tỉnh phê duyệt các đề án nhằm phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh như: Đề án phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch giai đoạn 2007-2012; Đề án phát triển tổng hợp kinh tế- xã hội và giảm nghèo bền vững cho 2 xã vùng cao, biên giới Trọng Hoá và Dân Hoá, huyện Minh Hoá (2007-2012)...
Công tác giao đất giao rừng, hỗ trợ nhà ở, đào tạo nghề và xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số đạt những kết quả tích cực. Công tác giáo dục, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” với nội dung trọng tâm là xây dựng gia đình văn hóa, làng bản văn hóa làm thay đổi căn bản diện mạo bản làng vùng đồng bào dân tộc.
Có thể khẳng định, trong những năm qua, việc thực hiện tốt công tác dân tộc và các chính sách dân tộc đã góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế-xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, kết quả đạt được trên nhiều lĩnh vực. Một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số từ bỏ hẳn tập quán đốt rừng làm nương rẫy, chuyển sang sản xuất thâm canh, biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi, đời sống đồng bào từng bước ổn định và phát triển.
Các tộc người có nguy cơ suy giảm dân số như Rục, Mã Liềng, A Rem từng bước vươn lên, hòa chung vào sự phát triển của cộng đồng các dân tộc. Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần, bình quân hàng năm đạt 5-6%. Cơ sở hạ tầng được ưu tiên đầu tư như đường giao thông, thủy lợi, điện, trường học, trạm y tế và các công trình phúc lợi xã hội khác.
Đến nay 100% xã đồng bào dân tộc thiểu số có đường ô tô đến trung tâm xã; 100% số xã có trường  học kiên cố, có điện sinh hoạt, phủ sóng phát thanh, kết nối hệ thống thông tin liên lạc. Công tác phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Hiện nay, 100% số xã đồng bào dân tộc thiểu số hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học. Số xã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở; học sinh người dân tộc thiểu số đỗ đại học, cao đẳng ngày một tăng.
Hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc, miền núi được củng cố, có nhiều chuyển biến tích cực. Cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm nhận những chức vụ chủ chốt trong cấp uỷ, chính quyền ở cấp xã.
Để phát huy truyền thống của cơ quan làm công tác dân tộc trong tỉnh những năm tiếp theo, công tác dân tộc cần tập trung vào một số nội dung, nhiệm vụ chủ yếu sau: Tiếp tục quán triệt và nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị về công tác dân tộc trong tình hình mới; tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước cho cán bộ và nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng biên giới.
Công tác dân tộc sẽ tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số; giải quyết tốt nhu cầu về đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ nghèo tại các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, nhất là đồng bào các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, biên giới.
Thực hiện tốt các chính sách về giáo dục, y tế, văn hóa - thông tin, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, bảo đảm  quốc phòng-an ninh, chống  âm mưu “diễn biến hoà bình” và các hành vi lợi dụng chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc.
Đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc theo tinh thần Chỉ số 28/CT-TTg ngày 10-9-2014 của Thủ tướng Chính phủ. Tiếp tục xây dựng và củng cố bộ máy làm công tác dân tộc từ tỉnh đến huyện đủ khả năng tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền các cấp về công tác dân tộc và thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực công tác dân tộc.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức, thực hiện chính sách dân tộc để kịp thời uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong quá trình thực hiện. Thường xuyên bám sát địa bàn vùng sâu, vùng xa nắm tình hình cơ sở và những diễn biến về tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, kịp thời tham mưu cho các cấp, các ngành giải quyết những vấn đề mới phát sinh ở vùng đồng bào dân tộc.
 
Đặng Thái Tôn – Trưởng ban Dân tộc tỉnh Quảng Bình

Các tin khác